Ta bỗng bật cười, cười đến nỗi cầm không nổi chén. Tạ Tự sững lại, như nhìn thấy một người xa lạ.
Mấy tháng qua ta thường lên núi xuống suối, vác giá vẽ tìm cảnh, da ngăm hơn xưa, thế mà hắn còn nói uyển chuyển như vậy.
Hắn đặt chén xuống, thoáng lúng túng, rồi sai Thanh Trúc bưng vào một rương gấm.
“Đây là gấm Thục từ Thục Châu.” Tạ Tự tự tay mở, dịu giọng:
“Là tân phẩm năm nay của Vân Tú Các, nàng xem có ưng không?”
Ta chỉ liếc qua, đi thẳng:
“Ta chưa từng để tâm tới tấm gấm thiếu kia.”
Hắn siết tay, cúi mắt nhìn rương gấm, không đối diện với ta.
“Hôm ấy mặc áo cũ, vốn chỉ vì y phục mới của phủ ta không thích thôi.” Ta khẽ cười:
“Ta vốn chẳng ưa màu sắc quá rực.”
“…Ta cũng đã đoán được.” Hắn khép rương, chợt nói:
“Gần đây phủ Bá mở yến thưởng hoa, khách khứa đều bảo không còn được chu toàn như khi nàng ở đó.”
“Hôm ấy mẫu thân cũng nhắc, rất nhớ nàng.” Hắn ngẩng đầu nhìn ta:
“Chư quản sự cũng thường nói, việc trong phủ chẳng còn có quy củ như trước.”
Ta nhấp trà, lại kể một chuyện khác:
“Ba tháng sau tân hôn, chàng xin đi外放, lần đầu ta chủ trì yến thưởng hoa.”
“Bữa tiệc ấy rối loạn vô cùng.” Ta cười, “Khách khứa thân sơ chẳng phân, quan hệ gia quyến chẳng rõ, trò cười đầy đủ.”
“Ta xuất thân thấp hèn, chẳng ai dạy quy củ, phu quân lại một đi không trở lại, mẹ chồng chẳng biết quản sự.” Ta nhìn hắn, khẽ nói:
“Ta cô độc, không một ai để hỏi han.”
Mi mắt Tạ Tự khẽ run, hô hấp nặng nề, quay mặt đi.
“Tạ đại nhân, người không biết, năm đầu ta bị xem là thế tử phu nhân thất sủng, người trong phủ đã đối xử ra sao.”
Ta thở dài:
“Ta cũng chẳng phải bẩm sinh mà giỏi giang.”
Không khí nặng nề, chỉ còn tiếng chim ngoài xa.
“Chúng ta đã ký hòa ly thư, xin Tạ đại nhân sớm đưa quan phủ.” Ta đứng dậy:
“Tạ đại nhân, ta không tiễn nữa.”
18
Tiễn Tạ Tự xong, ta tưởng ngày tháng sẽ yên tĩnh. Nào ngờ về sau, chỉ cần ngày nghỉ, hắn đều tìm đến.
Lần nào cũng mang quà, không phải châu báu gấm vóc, mà là gạo muối dầu trà, sách vở thi họa.
Dù ta khước từ, hắn vẫn giữ đúng mực; một kẻ mười tám tuổi đỗ thám hoa, lại từng làm quan ba năm nơi ngoại phóng, sớm đã hiểu thấu thế nhân.
Xưa kia hắn lạnh nhạt, chẳng qua ta chưa đáng để hắn phí tâm mà thôi.
Nhưng gác bỏ hiềm khích, một Tạ Tự chịu hạ mình, quả thật học rộng tài cao, là bạn hiền thầy giỏi.
Hắn đọc sách chính kinh, lại có trải nghiệm quan trường, mỗi câu chuyện thường khiến ta khai mở thêm nhiều điều.
Một buổi trưa xuân ấm, hắn nghỉ việc về từ thành, trên đường gặp ta đang vẽ ở bờ suối, liền giúp ta vác giá vẽ về tiểu viện.
Tổ mẫu múc nước suối pha trà, hương thơm thanh khiết, hắn vừa uống vừa bất ngờ nói:
“Lê nương, có thể cho ta thêm một cơ hội, cùng ta trở về phủ Bá chăng?”
Ta không đáp, chỉ thong thả uống cạn, mới nói:
“Tạ đại nhân, mời đi cùng ta.”
Ta dẫn hắn vào thư phòng.
Ngoài kia lê hoa đã qua kỳ rộ, cánh rụng đầy sân, gió thổi bay cả vào phòng.
Trong phòng đầy tranh, hương mực nồng nàn.
“Tạ đại nhân, nếu ở phủ Bá, ” ta nhìn hắn, “, ta nào có được gian thư phòng này.”
Nét hối hận thoáng lướt qua mặt hắn, đang định mở miệng, ta ngắt lời:
“Cũng chẳng có thời gian thảnh thơi mà vẽ.”
Hắn im lặng.
“Những năm làm vợ chàng, đôi khi ta cũng thấy ủy khuất.” Ta ngắm tranh, nhẹ giọng:
“Nhưng chàng oán trách ta cũng thường thôi, xét cho cùng, lỗi vẫn là ta.”
“Không, là ta sai. Tuổi trẻ nông nổi, làm nàng tổn thương quá nặng.” Tạ Tự đứng ở cửa, tự giễu:
“Uổng công đọc bao nhiêu sách thánh hiền.”
Ta cũng cười, chạm tay lên tranh, khẽ nói:
“Đêm tân hôn, ta đau lắm, đến nỗi sinh ra sợ hãi chuyện chăn gối.”
Hắn bỗng đỏ mặt, vành tai đến cổ đều hồng, xấu hổ chẳng nói nổi.
“Xin lỗi, ta là kẻ thô lỗ.” Ta nhướng mày nhìn hắn:
“Chỉ là, lần chàng về kinh, hôm đó lại rất dịu dàng.”
“Ta nhớ vô vàn nhục nhã và khổ sở, nhớ lúc chàng ở ngoại phóng, ta dốc hết dũng khí hỏi liệu có thể theo chàng.”
Đáp lại chỉ là những lời trách mắng lạnh lẽo, từng chữ như dao.
“Nhưng tất cả đều đã qua.” Ta nhìn gương mặt hắn tràn đầy hối tiếc:
“Từ khi hòa ly, những cảm xúc ấy ta hiếm khi nhớ đến nữa. Ta chẳng muốn quay lại phủ Bá, bởi phú quý quyền thế chẳng phải đời ta ao ước.”
“Ta vốn lười biếng, lại sinh nơi thôn dã, quen cảnh tự do.
Bốn năm ở phủ Bá, sáng tối vấn an, lo liệu việc phủ, suýt khiến ta ngạt thở.”
“Tạ đại nhân,” ta chỉ tay khắp phòng tranh, mỉm cười:
“Chàng xem, giờ tranh ta đâu chỉ có mỗi lê hoa nữa.”
19
Lần đầu tiên, Tạ Tự vội vàng rời đi, mang theo chút dáng vẻ như kẻ chạy trốn.
Ngày tháng của ta lại trở lại yên ổn; nấu rượu, pha trà, đọc sách, vẽ tranh, đôi khi đón tiếp mấy nữ tử cũng bán tranh ở Khê Sơn Các.
Thanh Trúc mười ngày lại đến thăm một lần, từ nàng ta biết được nhiều tin tức:
Như chuyện sổ sách trong phủ từ khi ta đi đã không còn rõ ràng.