A nương như thường lệ mở cửa sổ định ngồi thêu túi hương bên giường, chẳng ngờ hạ nhân hôm ấy quét dọn qua loa, để sót một vũng nước tuyết.
Chỉ một chút ấy thôi, đã khiến nàng trượt ngã, suýt chút nữa hai mẹ con cùng mất mạng.
Ngụy tiên sinh vừa nghe tin, liền tự mình lăn xe đến, không chờ ai giúp.
Một người ngày thường điềm đạm, giờ như mất hết lý trí, cuống cuồng xông ra cửa, đến áo ấm cũng không kịp mặc.
Triệu thúc kể, khi ông phát hiện ra Ngụy tiên sinh, người đã quỳ rạp trên mặt đất, sắc mặt đỏ bừng vì lạnh và giận, mắt ánh lên sự bất lực phẫn nộ.
Người dùng cả tứ chi để bò tới, sau lưng là chiếc xe lăn bị vứt bỏ, chỉ còn con đường lát đá chưa bị tuyết phủ kín.
Một người từng kiêu hãnh ngút trời, giờ trông chẳng khác gì con thú hoang thua trận.
Triệu thúc kể đến đây, giọng nghẹn ngào đầy cảm khái.
Ta không biết Ngụy tiên sinh trước kia từng là người ra sao, nhưng từ trong lời kể đó, ta có thể mường tượng ra bóng dáng một bậc anh tài phong lưu tuấn lãng.
Sau đó, người thay áo mới, bình thản đi vào phòng sinh.
Ta chỉ nằm trong bụng mẹ thêm một canh giờ, người liền đứng đợi ngoài cửa suốt một canh giờ.
Tuyết trắng như lông ngỗng rơi phủ đầu người,
nhìn từ xa, hệt như mái tóc đã bị nhuộm bạc.
Biết bao nhiêu lời muốn nói, nhưng khi đối diện với A nương, tất cả chỉ gói gọn thành một câu:
“Ngươi bình an là tốt rồi.”
Ngụy tiên sinh rời đi, A nương nắm chặt ngọc bội trong tay, sững sờ không nói thành lời, đó là lễ vật mừng nàng sinh nở mà người tặng.
Chưa từng nghe ai tặng quà cho sản phụ như thế.
Vì vậy, khi nghe nói Ngụy tiên sinh bị bệnh, A nương bèn khoác áo bông dày cộp, bất chấp gió tuyết mà tìm đến bên ngoài phòng người.
Triệu thúc kể, khi nghe thấy tiếng A nương, người vốn đang uể oải cả ngày bỗng như sống lại, tinh thần hưng phấn đến không che giấu nổi.
Chỉ là… điều ấy, so với những gì A nương kể lại cho ta, lại hoàn toàn không giống chút nào.
4
Trong lời kể của A nương, Ngụy tiên sinh là một người nghiêm trang, không thể mạo phạm, nhưng lại khiến người ta vô cùng tin tưởng.
Người lòng dạ nhân hậu, tự mình chọn người hầu phù hợp cho A nương;
Người tinh tế chu đáo, tặng nàng những bộ y phục mà thiếu nữ yêu thích, tìm về những món trang sức xinh xắn tinh xảo;
Người học vấn uyên bác, dạy nàng đọc sách viết chữ…
Người đã làm rất nhiều, rất nhiều.
Khi đất dưới gốc liễu năm xưa đã bị lớp khác phủ lên, không còn thấy rõ nét chữ từng khắc, thì tình ý Ngụy tiên sinh dành cho A nương vẫn phủ đầy khắp gian phòng, khắp nơi đều thấy.
Chỉ có điều, A nương là người duy nhất không nhìn ra.
Nàng cho rằng, tất cả đều chỉ vì Ngụy tiên sinh là người tốt bụng mà thôi.
Rõ ràng người luôn đeo bên mình túi hương do nàng tự tay làm;
rõ ràng người chỉ cho phép một mình nàng quấy rầy;
vậy mà A nương vẫn không dám đến gần dù chỉ một chút.
Nàng vừa dũng cảm lại vừa tự ti, vừa kiên cường lại vừa nhút nhát, nhưng nàng chưa bao giờ nói ra điều gì.
Cuộc sống nơi núi cao vốn buồn tẻ vô cùng, chỉ có A nương là không thấy buồn.
Nàng trồng rau trồng hoa trong sân; nàng cùng Ngụy tiên sinh phơi nắng ngắm cảnh;
nàng nấu trà giữa tuyết đông, làm bánh trong bếp mùa hạ, ngày tháng trôi qua ung dung, tự tại.
Nhưng ta biết, cuộc sống ấy, không hẳn như nàng nói.
Ngụy tiên sinh chưa từng ngăn nàng xuống núi, nhưng là chính nàng không muốn đi.
Một lần ta ngồi trong lòng nàng, hỏi nàng vì sao không xuống núi, ánh mắt nàng thoáng ảm đạm.
Hồi lâu, nàng khẽ vuốt tóc ta, lẩm bẩm một mình:
“Dưới núi có gì đâu? Chỉ toàn lang sói, không bằng trên núi yên bình hơn.”
Lời nói là thế, nhưng ánh mắt nàng mỗi ngày đều hướng về nơi xa xăm, nói cho ta biết, nàng chưa từng quên.
Chỉ là A nương không hay biết, mỗi khi nàng nhìn về phương xa, đều có một người đứng phía sau dõi theo nàng.
Khi nàng trầm tư nhớ về gia đình, luôn có người “tình cờ” nhắc đến chuyện dưới núi.
Hàng loạt thứ “trần tục” từng chút từng chút được đưa vào phòng nàng, chất đầy sân nhỏ, toàn là những vật nàng từng yêu thích khi còn nhỏ.
Nàng lỡ miệng nói thích hoa, mùa xuân năm sau sân vườn liền ngập tràn hoa nở.
Nàng nói nhớ nhà, liền có người lặng lẽ thức trắng bên ngoài suốt bao đêm.
Ngụy tiên sinh là người ít nói, lặng lẽ len vào cuộc sống của A nương một cách tự nhiên đến mức nàng không hề nhận ra.
Người quá đỗi trầm lặng, đến mức nàng không hề nghe thấy.
Nếu không phải ta là đứa bé lanh lợi, lại thường được người ấy vô tình nhắc đến mẹ ta trong những lời dạy dỗ, thì e là ta cũng không nhận ra điều đó.
Ta chợt nhớ, Triệu thúc từng nói, khi ta bập bẹ tập nói, từ đầu tiên ta gọi, lại là gọi Ngụy tiên sinh là “cha”.
A nương hoảng hốt bịt miệng ta lại, vội vàng cười làm lành, nói với người: “Trẻ nhỏ không hiểu chuyện.”
Chỉ có Ngụy tiên sinh là lén vui suốt mấy hôm, còn đáp: “Không sao.”