Đánh một bạt tai, rồi cho một quả táo ngọt.

Mà quả táo ngọt ấy, ta vừa khóc vừa vẫn phải nuốt vào.

“Phu nhân cùng thế tử, khởi đầu hôn sự vốn trắc trở, ta biết mấy năm nay người chịu đủ ủy khuất.”

Trần bá thở dài: “Thế tử nay về kinh, đường quan vận sẽ càng thênh thang. Nữ tử ở đời chẳng phải nương chồng thì cũng cậy con, đường sau này của phu nhân, tất sẽ càng thêm thuận lợi.”

Ta lau nước mắt, mỉm cười qua hàng lệ long lanh.

Nhưng với lời khuyên nhủ ấy, ta chẳng mảy may để tâm.

6

Tình cảm thăng trầm, xử lý việc trong phủ khiến thân thể thêm mỏi mệt.

Chiều tối hầu lão phu nhân bữa cơm, bà thấy sắc mặt ta kém, liền cau mày:

“Hôm nay sao thế, mau ngồi xuống nghỉ.”

Ta cảm tạ rồi ngồi.

Lão phu nhân vốn chẳng quản việc trong phủ, năm ta mới nhập môn, còn chưa hiểu rõ sổ sách, bà đã giao việc phủ vào tay ta.

Ba năm Tạ Tự ở ngoài, lão phu nhân an nhàn uống trà xem hí, chẳng hỏi việc gì, ta chỉ đến vấn an mỗi bữa.

“Thành Quân đã về, con phải chăm điều dưỡng thân thể, sớm ngày cho ta bế đích tôn mập mạp.”

Ta cúi đầu vâng dạ.

“Người cùng tuổi, nay con cái cũng đã vài đứa.” Lão phu nhân khẽ thở dài, “Nếu năm ấy mà…”

Bà bỏ lửng, ta lại hiểu rõ hàm ý, nếu năm ấy thành thân cùng Sở Lan, e nay đã con đàn cháu đống.

Ta chẳng thể đáp.

Sở Lan là ái nữ của Thị lang bộ Hộ, lại là thanh mai trúc mã với Tạ Tự, môn đăng hộ đối. Cái vị trí nay ta đang ngồi, vốn nên thuộc về nàng ta.

Tháng thứ ba sau khi ta gả, Sở Lan đã định hôn. Chính lúc ấy, Tạ Tự tự xin đi外放.

Bữa cơm ấy nhạt nhẽo, ta trở về chính viện. Sau khi tắm rửa, Thanh Trúc hỏi:

“Hôm nay phu nhân có muốn vẽ tranh chăng?”

Khi ấy đã giờ Hợi, thường nhật ta nhiều việc, hôm nay lại vì thân thể mỏi, nên đã muộn hơn mọi khi.

“Cứ vẽ đi.” Ta cười khẽ, “Mỗi ngày chỉ có giờ này là chút yên tĩnh.”

Họa thất đặt tại Minh đường, ngoài cửa sổ là vườn lê bạt ngàn.

Khi mài mực, ta bỗng nhớ tới, năm nào đã từng hỏi Tạ Tự, liệu có thể mượn thư phòng của hắn.

Ngày ấy, hắn đã trả lời ta thế nào nhỉ?

Ta vừa đặt bút, bỗng một cơn gió thổi, cả vườn lê rụng trắng xóa.

Cánh hoa rơi trên giấy, ta nhìn vài giây, trong lòng nghĩ, nếu là người khác, có hôn sự như ta, ắt phải thấy thỏa mãn.

Con gái quê mùa, được gả vào phủ Bá; phu quân chi lan ngọc thụ, tiền đồ rộng mở; họ Tạ lại giữ gia phong nghiêm cẩn, ba mươi tuổi không con mới được nạp thiếp.

Nhưng, chỉ cần nhắm mắt, mối chua xót ngổn ngang nơi ngực lại như sóng tràn ngập.

Chuyện hôn nhân, vốn như người uống nước, lạnh ấm tự hay.

Rèm châu khẽ động, ngoài cửa có tiếng thông báo:

“Thế tử đã về.”

7

Tạ Tự uống rượu, trước tiên vào phòng tắm gội.

Khi ra, bức họa của ta đã xong quá nửa. Ta mải miết vẽ, đến lúc nhận ra bóng người in trên giấy mới ngẩng đầu.

Tạ Tự mặc trung y màu nguyệt bạch, cổ áo hơi mở, tóc dài chưa buộc, còn vương ướt, đang chăm chú nhìn tranh ta.

Ta kinh ngạc định đứng lên, lại bị hắn khẽ ấn vai, ngăn ta.

Nhiệt độ nơi bàn tay hắn khiến cả hai ta đều khựng lại một thoáng.

“…Thế tử.” Ta mở miệng, “Người về từ khi nào?”

Rốt cuộc đã đứng sau ta bao lâu?

“Từ khi nào ngươi biết vẽ?” Hắn chẳng đáp, chỉ cầm giấy xem hồi lâu, rồi bình:

“Đậm nhạt hài hòa, khí vận dài lâu.”

“Hồi mới cưới, chữ ngươi viết chẳng thể xem, sổ sách cũng chẳng hiểu nổi.”

Hắn ngẩng đầu, giọng vốn lạnh lùng nay ôn hòa hơn:

“Giờ tranh ngươi thế này, chắc hẳn lúc ta vắng nhà, ngươi đã khổ luyện không ít.”

Cảm giác như kim nhọn chích vào, thoáng đau buốt rồi tan.

Thực ra ta vốn giỏi vẽ từ nhỏ. Từ phụ thân, thầy dạy huyện học, đến cả cố Bá gia, đều khen nét bút ta linh động.

Ta vốn dĩ biết vẽ, chứ chẳng phải đợi sau khi lấy hắn mới học.

Song, ta chẳng đã quen sao?

Ta chỉ khẽ cười, rủ mắt, chẳng giải thích.

Tạ Tự lại ngắm tranh, khen mấy lời, chợt nhớ ra:

“Vẽ cớ sao chẳng đến thư phòng…”

Câu chưa dứt, hắn liền sực nghĩ tới, vì sao ta không thể vào đó.

Ngoài tường, gió nổi, lê hoa lại bay.

Tạ Tự ung dung ngồi đối diện ta, như đêm xuân tân hôn năm nào.

Cũng là đêm xuân ấy, ta dè dặt xin mượn thư phòng, lại khiến hắn đột nhiên trở mặt lạnh nhạt.

8

Tạ Tự sinh nơi môn đình hiển quý, lễ nghi giáo dưỡng khắc sâu tận cốt.

Hắn dù có tức giận, cũng chẳng thất thố, chỉ thêm lạnh giọng, thêm xa cách.

Như lần ấy, sau khi ta mở miệng hỏi mượn thư phòng, hắn hờ hững suốt nhiều ngày.

Một nữ tử quê mùa, chữ viết không ra gì, quả thật chẳng xứng bước chân vào thư phòng Thám Hoa Lang.

“…Hôm ấy là ta sai.”

Ta ngạc nhiên ngẩng lên, thấy Tạ Tự đã ngồi ngay ngắn, mắt nhìn ta:

“Năm đó ta tuổi trẻ nông nổi, tính tình dễ nổi giận, với nàng nhiều lần giận lẫy.”

“Xin phu nhân tha thứ.” Hắn rót trà cho ta, ôn nhu nói:

“Về sau cứ vào thư phòng, mai ta sẽ bảo Mặc Vân chuẩn bị đủ họa cụ.”