Hơn nữa, Nhâm Lâm thì háo sắc vô năng, còn Lý Dực lại nổi tiếng dũng mãnh thiện chiến.
So sánh hai bên, tuy ta là lương tì, nhưng lại cao quý hơn cả Thái tử phi như Thi Duẫn.
Trong mắt Thi Duẫn liền ánh lên tia ghen tị, hối hận không thôi vì năm xưa không phải nàng ta đi hòa thân.
Nhưng vì thể diện, nàng ta đành nén giận, khom người hành lễ với ta.
Trong buổi yến tiệc tối hôm đó, ta lại gặp Nhâm Lâm.
Mấy năm không gặp, hắn đã chẳng còn dáng vẻ tuấn tú năm xưa.
Thân thể hao mòn vì tửu sắc, cả người tiều tụy mệt mỏi.
Khi nhìn thấy ta, mắt hắn sáng lên, đầy xúc động, nhưng lại chẳng nói nên lời.
Sau vài tuần rượu, hắn đuổi theo ta trong hoa viên khi ta đang rảo bước rời đi:
“Thi Vi… những năm qua nàng sống có tốt không?”
Hắn nhìn ta đầy si mê:
“Từ sau khi nàng rời khỏi Sở quốc, ta ngày đêm nhung nhớ. Nhiều lúc ta nghĩ, giá như năm đó ta chọn nàng… nàng dịu dàng hiền hậu, chúng ta hẳn sẽ là một đôi thần tiên quyến lữ.”
“Thi Vi, năm xưa rõ ràng là ta và nàng có hôn ước. Là ta bị mù quáng mới chọn Thi Duẫn, một con đàn bà ghen tuông hẹp hòi.”
Ta đã sớm biết, kiếp trước hắn chưa từng thật lòng yêu Thi Duẫn.
Chẳng qua là bởi hắn chưa từng có được nàng ta, nên mới thần thánh hóa nàng.
Kiếp này cũng vậy. Hắn chẳng hề luyến tiếc ta, mà chỉ vì ta đã gả sang Giang quốc, còn Thi Duẫn thì ngày ngày đay nghiến hắn, nên hắn mới nhớ đến sự dịu dàng năm nào của ta.
Hắn bước tới muốn nắm tay ta, nhưng đã bị thị nữ bên cạnh ta chắn lại.
Phía sau hắn, Lý Dực khoanh tay đứng nhìn, môi cười nhưng mắt lại lạnh lùng.
Thi Duẫn tức giận đỏ mặt, giật chiếc ngọc bội bên hông ném mạnh xuống đường đá:
“Nhâm Lâm! Ta muốn hòa ly với ngươi!”
Thi Duẫn vừa khóc vừa kéo Nhâm Lâm rời khỏi.
Lý Dực đi tới cạnh ta:
“Rõ ràng nàng có thể đi nhanh hơn, khiến hắn đuổi không kịp. Vậy mà lại đứng đây chờ hắn. Là còn luyến tiếc tình cũ sao?”
“Không phải.” Ta mỉm cười đáp:
“Điện hạ chẳng phải đang chờ một cái cớ để xuất binh đánh Sở quốc sao? Thiếp sẽ dâng cho người cơ hội ấy.”
6
Từ xưa đến nay, vợ chồng thường dân muốn hòa ly đã khó, huống chi Thi Duẫn lại muốn hòa ly với hoàng thất, chẳng khác nào tát vào mặt hoàng tộc Sở quốc.
Sau khi trở về phòng, Thi Duẫn làm ầm lên một trận, cuối cùng khiến Nhâm Lâm tức giận bỏ đi.
Mẫu thân chỉ đành đến khuyên nhủ:
“Duẫn nhi, đây là Giang quốc, không phải Sở quốc, con cũng nên chừa chút thể diện cho Thái tử chứ.”
“Con nhìn tỷ tỷ con mà xem, năm đó bị đưa đi hòa thân đến Giang quốc, chẳng phải cũng nhẫn nhịn mà trở thành lương tì của Thái tử đấy thôi?”
Một tiếng choang giòn tan vang lên, là đồ sứ bị đập vỡ.
Thi Duẫn òa lên khóc nức nở:
“Tất cả là lỗi của người! Nếu năm xưa để con đi hòa thân, thì đâu đến nỗi phải chịu ấm ức như hôm nay? Trong Đông cung của hắn có đến mấy chục thị thiếp, bây giờ còn dám nói vẫn nhớ thương Thi Vi!”
“Nếu con là người đi hòa thân, với bản lĩnh của con, chưa biết chừng còn làm được Thái tử phi. Sao có thể giống cái thứ vô dụng ấy, mãi mãi chỉ làm được lương tì!”
“Chính người đã hủy đi nhân duyên tốt đẹp của con, hủy đi một phu quân tốt!”
Mẫu thân bị Thi Duẫn vừa trách móc vừa đánh đập, chỉ biết dài giọng thở than, không hiểu sao đứa con gái ngoan ngoãn hiểu chuyện năm nào lại biến thành thế này.
Một lúc sau, bà mới nói:
“Dù sao đi nữa, Thi Vi vẫn là tỷ tỷ con. Con bé có thế lực, sau này cũng không bỏ mặc con đâu.”
“Con nên kết thân với nó, lui tới nhiều hơn. Huống hồ nó còn đang mang thai, nếu có thể sinh được một nam hài, cũng sẽ là phúc khí cho cả nhà ta.”
Ta nghe đến đó, không khỏi bật cười lạnh, nghĩ đến đứa bé trai mà kiếp trước bà chính tay bóp chết.
Tỳ nữ bên cạnh bưng theo đồ vật hỏi ta có muốn vào thăm mẫu thân không, ta lắc đầu.
Nếu bọn họ đang tính kế ta, thì nhất định sẽ chủ động đến tìm ta. Ta đâu cần tự hạ thấp mình.
Quả nhiên, không bao lâu sau, Thi Duẫn đã giấu đi dáng vẻ ngang ngược thường ngày, tỏ ra thân thiết mà đến tìm ta.
Nàng ta bưng một bát canh ngân nhĩ táo đỏ, cười tươi rói nói:
“Tỷ tỷ còn nhớ không? Lúc ở phủ, tổ mẫu thích nhất nấu món này cho chúng ta. Giờ tổ mẫu đã khuất, muội học theo mà nấu, nhưng chỉ được bảy tám phần giống.”
“Tỷ nếm thử đi.”
Ta vừa đưa bát canh lên miệng liền ngửi thấy mùi thuốc độc.
Nhìn nụ cười giả tạo trên mặt nàng ta, ta biết nàng chẳng hề nghe lời mẫu thân dặn dò.
Mẫu thân bảo nàng kết thân với ta, nàng lại vì ghen ghét mà bỏ thuốc độc vào bát canh hòng lấy mạng ta.
Cũng tốt thôi, ta vốn đang chờ nàng tự chui đầu vào rọ.
Ta ngửa đầu uống cạn bát canh, chưa đến mấy giây đã phun ra một ngụm huyết đen, quỳ rạp xuống trước mặt Thi Duẫn vì đau đớn dữ dội trong bụng.
Thi Duẫn hoảng loạn đỡ ta dậy, vờ tỏ ra sốt sắng:
“Sao thế này? Tỷ tỷ, đừng dọa muội mà! Là ai, ai dám mượn tay muội để hại tỷ?”
Loại độc này là thứ rất phổ biến ở Sở quốc, thái y được gọi tới kê đơn giải độc theo phương thuốc ta đưa.
Tạm thời ta không nguy hiểm đến tính mạng, nhưng đứa trẻ trong bụng thì không giữ được nữa.
Lý Dực nghe tin chạy đến, thấy ta sảy thai, lập tức nắm chặt tay ta, nhíu mày hỏi:
“Rõ ràng nàng biết trong đó có độc, tại sao còn uống?”
“Để cho Giang quốc một lý do xuất binh.” Ta thở dốc, nhọc nhằn nói:
“Thi Duẫn ngu ngốc, được mẫu thân nuông chiều từ bé, chẳng hiểu đời hiểm ác ra sao. Chỉ có thể từ nàng ta mà ra tay, mới có cơ hội thế này.”
“Nếu để nàng ta thoát thân, chúng ta sẽ chẳng còn đầu mối nào nữa.”
Thi Duẫn, mẫu thân, và cả Nhâm Lâm lập tức bị bắt giữ.
Đám sứ thần đi cùng cũng bị giam ngoài cung.
Mẫu thân vùng vẫy muốn vào thăm ta, bà quỳ gối cầu xin ta và Lý Dực đừng phát binh đánh Sở quốc.
Lý Dực im lặng không đáp.
Bà quay sang năn nỉ ta:
“Vi nhi, đây là chuyện tranh chấp giữa hai tỷ muội, sao lại gây nên chiến tranh hai nước? Muội muội con chỉ vì ghen tị mà phạm sai, con làm tỷ, sao không thể bao dung cho muội một chút?”
Nghe những lời này, thứ ta đã nghe đến mòn tai từ kiếp trước, máu trong người ta sôi lên, ta lại phun ra một ngụm máu đen.
Lý Dực không thể nhịn nữa, trấn an ta xong liền nổi giận quát lớn:
“Cái gì mà tranh chấp giữa tỷ muội? Đây là Thái tử phi Sở quốc sát hại con của Thái tử Giang quốc, là huyết thù quốc hận!”
“Bổn điện không thể bỏ qua! Mong phu nhân cẩn trọng lời nói, nếu không, ta không dám chắc sẽ xử lý Thi Duẫn thế nào đâu.”
“Thi Vi cần tĩnh dưỡng. Sau này, phu nhân không cần đến gặp nữa.”
Người con gái mà mẫu thân một lòng che chở cuối cùng đã gây nên đại họa, còn ta, ta đã mất đi đứa con đầu lòng của mình.
Ta nhìn xuống bụng mình, nơi đã trở nên phẳng lặng
Sau khi Lý Dực rời đi, ta không kìm được mà òa lên khóc nức nở.
7
Lý Dực bắt giữ toàn bộ sứ thần Sở quốc, chỉ viết một phong thư giải thích rõ ngọn ngành gửi về.
Cuối cùng, hoàng đế Sở quốc vì muốn dẹp yên chiến sự và chuộc lại đứa con bất tài, đành chấp thuận cắt đất mười thành để đổi lấy Nhâm Lâm.
Sự việc khiến hoàng đế Sở quốc giận quá phát bệnh, chẳng bao lâu sau thì băng hà.
Nhâm Lâm vừa được chuộc về đã vội vàng kế vị.
Nhưng Lý Dực không hề định tha cho Sở quốc.
Sau khi nhận lấy mười tòa thành, hắn liền tiếp tục phát động chiến tranh lần thứ hai.
Sở quốc binh lực bạc nhược, quốc khố sớm đã bị Thi Duẫn và Nhâm Lâm tiêu xài đến trống rỗng.
Thêm vào đó, dịch bệnh lan tràn, tướng sĩ ngã xuống từng lớp từng lớp.
Huynh trưởng ta lại không giữ nổi cửa ải, liên tiếp thất bại, cuối cùng chết trận nơi sa trường.
Trước khi chết, hắn để lại cho ta một bức thư, trong đó tràn đầy hối hận:
Đ..ọc, full@ tạ,i P//a,g,e “Mỗ-i n,gày~ chỉ* muố.n: là,m c;á~ muố,i!”
“Nếu năm ấy để muội làm Thái tử phi, có lẽ còn có thể cứu được bao nhiêu sinh mạng tướng sĩ nơi biên cương.”
Hắn cuối cùng cũng hiểu ra, điều Sở quốc cần, chính là ta.
Cuối thư, hắn viết:
“Tướng sĩ sinh ra vốn vì nước, chết trận nơi biên cương cũng là mệnh số. Cường quốc thôn tính nhược quốc vốn là thiên đạo.
Chỉ mong cha mẹ tuổi đã cao, nếu muội tiến quân vào kinh, xin tha cho họ một con đường sống.”
Ta đưa thư lên ngọn nến, để ngọn lửa đốt rụi tất cả.
Đại quân lại tiếp tục tiến về trước.
Mùa đông cũng sắp đến, chúng ta phải kịp vào thành trước khi tuyết phủ kín đất.
Khi đợt tuyết đầu tiên rơi xuống, cuối cùng ta cũng đến được kinh thành Sở quốc.
Đón tiếp chúng ta không phải là Nhâm Lâm hay Thi Duẫn, cũng không phải quan tướng quyền quý, mà là phụ mẫu của ta, tay dắt cừu, đứng chờ trước thành.
Mẫu thân ngẩng đầu nhìn ta, chỉ sau hai năm mà tóc bà đã bạc đi hơn nửa.
Bà lắp bắp:
“Vi nhi, con về rồi… con trở về rồi phải không?”
Nhưng ta, một linh hồn đã sống lại hai đời, ta chẳng còn nơi nào gọi là nhà.
Phía sau phụ mẫu là cánh cổng thành đóng chặt, ta hiểu, Sở quốc vẫn không có ý định quy hàng, chỉ đẩy cha mẹ ra làm bia đỡ giận.
Lý Dực dẫn họ về doanh trướng.
Phụ thân vừa gặp ta đã nước mắt giàn giụa, nắm lấy tay ta mà khóc:
“Vi nhi, là lỗi của phụ thân. Những năm qua cha bận trấn giữ biên cương, không biết con sống ra sao, khiến con chịu nhiều uất ức.”
“Giờ con đã trở về rồi, chúng ta sẽ sống bên nhau, không chia lìa nữa.”
Ta cắt lời ông:
“Phụ thân, những tủi nhục con phải chịu, người đều biết rõ.
Người biết con bị đưa đi hòa thân, biết con bị gả cho thái giám.
Từ chuyện con bị ngược đãi cho đến bị đày sang nước khác, người đều biết cả.”
“Chỉ là… người không quan tâm. Người chỉ thương yêu Thi Duẫn hơn chút mà thôi.
Vì Thi Duẫn, người có thể rời thành cúi đầu nhận lỗi, nhưng lại chẳng buồn ra biên giới tiễn con một bước, cho con chút chỗ dựa để người khác không dám bắt nạt.”